Mở đầu bài phú, nổi bật lên là hình tượng nhân vật “khách”. Vị “khách” này có thú du ngoạn và niềm cảm khái trước cảnh sông nước Bạch Đằng (.Giương buồm giong gió chơi vơi/ Lướt bể chơi trăng mái miết)bộc lộ niềm yêu mến cảnh đất trời thơ mộng, tâm hồn thanh thản, tâm tình đắm say.
3. Cảm xúc của khách trước khung cảnh thiên nhiên sông Bạch Đằng: phấn khởi, tự hào và buồn thương tiếc nuối vì những giá trị đang lùi vào quá khứ. Khách không bị ràng buộc bởi thời gian (sớm gõ thuyền, chiều lần thăm...), ngao du khắp đó đây, không giới hạn không gian. Những địa danh ở đây mang ý nghĩa tượng trưng về cảnh non nước hữu tình (Nguyên Tương, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Vũ Huyệt, Văn Mộng, Tam Ngô, Bách Việt). Giọng văn sảng khoái biểu hiện tâm hồn giàu xúc cảm của một bậc cao sĩ.
- Học thú tiêu dao đây đó của Tư Mã Tử Trường, khách đến sông Bạch Đằng ngoạn cảnh, xúc cảm với nhiều sắc độ khác nhau.
- Lâng lâng vui thú trước cảnh nước trời kì vĩ:
Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.
- Lặng buồn khi nghĩ tới cảnh chiến trường xưa:
Sông chìm giáo gãy,
Gò đầy xương khô.
- Tiếc thương những anh hùng đã khuất, nay chỉ còn là dấu vết bờ lau san sát, bến lách đìu hiu. Niềm cảm khái đó giống như Đỗ Mực đời Đường trong bài thơ Xích Bích hoài cổ hoặc Nguyễn Trãi một lần nhẹ lướt buồm thơ trên sông Bạch Đằng: Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng.
4. Hình ảnh các bô lão được miêu tả làm cho đoạn văn thêm sinh động, biểu hiện tình cảm mang tính khách quan khi kể lại những chiến công xưa. Vì thế chiến tích trên sông Bạch Đằng đã được gợi lên cụ thể chân thực.
- Hình ảnh Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới; Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói thể hiện khí thế dũng mãnh và tính chất quyết liệt của các trận đánh trên sông Bạch Đằng, từ Ngô chúa phá Hoàng Thao đến nhị thánh bắt Ô Mã.
- Chi tiết Những tưởng gieo roi một lần / Quét sạch Nam bang bốn cõi nói lên thái độ kiêu căng, ngạo mạn của quân xâm lược, để rồi cuối cùng là hình ảnh thảm bại tan tác của giặc: tan tác tro bay, hoàn toàn chết trụi.
- Sử dụng các kiểu câu dài ngắn để diễn đạt phù hợp với nội dung:
+ Vế câu dài 12 tiếng với giọng trang nghiêm dõng dạc:
Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt 0 Mã;
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoàng Thao.
+Vế câu ngắn 4 tiếng, thể hiện không khí căng thẳng, khẩn trương của chiến trận:
Thuyền bè muôn đội, / tinh kì phấp phới,
Hùng hổ sáu quân,/ giáo gươm sáng chói.
5. Lời ca của các vị bô lão và lời ca nối tiếp của khách nhằm khẳng định lòng tự hào về dòng sông lịch sử và nêu một nhận định mang tính khái quát:
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.
Cuối cùng là lời bàn luận về đường lối giữ nước tài tình của vương triều nhà Trần: Bởi đâu đất hiểm cốt minh đức cao.