Phân tích bài thơ Vội Vàng
Những bài thơ hay và ấn tượng về tính yêu mãnh liệt của Xuân Diệu được lột tả qua bài thơ Vội Vàng. Dưới đây là những bài văn nổi bật phân tích cảm nhận về bài thơ Vội Vàng của nhà thơ tình Xuân Diệu. Chúc các bạn có những ý tưởng hay để làm tốt bài văn của mình.
Phân tích bài thơ Vội Vàng
Phân tích bài thơ Vội Vàng Bài Mẫu 1: Đây là một bài phân thích rất hay của một độc giả với bình luận là phân tích khá hay mấy khổ thơ đầu, phần cuối thơ thì phân tích có phần hơi đuối, bài viết phân tích chưa bao quát nhưng nhìn chung đây là một bài phân tích hay và nên đọc
Trước cách mạng tháng tám, hồn thơ của Xuân Diệu hồn nhiên yêu đời, yêu cuộc sống, say mê với cái đẹp, nhạy cảm với sự trôi chảy của thời gian. Nhưng càng yêu say, Xuân Diệu càng sợ cuộc sống sợ tình yêu và vẻ đẹp sẽ bỏ mình và bay đi mất. Chính vì thế mà ta thường gặp trong thơ ông những trạng thái hốt hoảng, lo âu, yêu - sống một cách tham lam, cuống quýt, vồ vập. "Vội vàng" là bài thơ tiêu biểu cho trạng thái cảm xúc ấy của Xuân Diệu.
Phân tích bài thơ Vội Vàng Bài Mẫu 2:
Phân tích bài thơ Vội Vàng Bài Mẫu 3:
Xuân Diệu, “Ông Hoàng của thơ tình yêu” - thi sĩ đã làm say mê bao bạn đọc trẻ tuổi. Sức hấp dẫn của thơ Xuân Diệu đối với tuổi trẻ chính là cái náo nức, cái xôn xao, cái đắm say với cuộc đời, với tình yêu của một tâm hồn trẻ trung khát khao sống trọn vẹn. Ngay từ khi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam những năm 30 của thế kỷ XX, Xuân Diệu đã được lớp trẻ hoan nghênh và say mê. Nhà nghiên cứu Hoài Thanh đã nhận xét: “Xuân Diệu mới nhất trong các nhà thơ mới - nên những người lòng còn trẻ mới thích đọc Xuân Diệu, mà đã thích thì phải mê…”. Đọc thơ Xuân Diệu, ta bắt gặp một nguồn sống dạt dào, chính cái náo nức dạt dào ấy là biểu tượng cho cái chất trẻ - sức xuân của một hồn thơ.
Tuổi trẻ - Mùa xuân - Tình yêu - Thời gian - Cuộc đời là những đề tài có sức hấp dẫn lớn trong thơ Xuân Diệu. Vội vàng là một trong những bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám. Đó là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt, và chính vì thế mà không thể dửng dưng trước thời gian. Trong Vội vàng có một nỗi lo sợ, hốt hoảng của cái tôi khát khao giao cảm với đời trước sự trôi chảy của thời gian.
Mở đầu Vội vàng là những câu thơ đầy khao khát:
Tôi muốn tắt nắng đi…
Tôi muốn buộc gió lại…
Chỉ với một tâm hồn yêu đời đến mãnh liệt, muốn giữ lấy tất cả những hương sắc trần gian mới có một niềm khao khát táo bạo đến thế. Nhà thơ muốn giữ lại tất cả những điều kỳ diệu của cuộc sống:
Cho màu dừng nhạt mất…
Cho hương đừng bay đi…
Ở đây, ta nhận ra nét quen thuộc trong thơ Xuân Diệu, một tâm hồn rất nhạy cảm với thanh âm, hương sắc. Thế giới của cái đẹp, của sự sống có sức hấp dẫn kỳ lạ đối với tấm lòng thiết tha yêu đời ấy, là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ Xuân Diệu.
Tiếp theo những câu thơ ngắn diễn tả cái ý muốn táo bạo và quyết liệt ấy là những dòng thơ như tuôn theo một cảm xúc dạt dào của một tấm lòng say sưa với những thanh sắc của cuộc đời. Nhà thơ hăm hở đi tìm những những nơi sự sống dồi dào tụ lại. Và nơi đâu hơn Mùa Xuân? Thi sĩ thả hồn mình bơi trong ánh nắng, say sưa với ong bướm, rung động với thanh sắc của cỏ cây hoa lá, ngất ngây với thanh âm của tiếng chim mùa xuân… Những từ điệp ngữ “này đây” như gọi mời, như cuốn hút chúng ta vào cái thế giới đầy thanh âm, hương sắc mà thi sĩ đã diễn tả bằng tất cả niềm say sưa, sôi nổi. Với mùa xuân, thơ Xuân Diệu bao giờ cũng có cái đắm say, nồng nhiệt như thế. Với một lòng yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt của một hồn thơ thiết tha, rạo rực, nhà thơ nhìn cuộc sống, cảm nhận mùa xuân rất trần thế:
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần…
Thế giới thơ Xuân Diệu là một thế giới đầy xuân sắc và xuân tình. Ta bắt gặp một một hình ảnh so sánh thật mới mẻ, độc đáo và khỏe khoắn và đầy sức xuân. Cách ví von ấy thật hợp với dòng cảm xúc nồng nhiệt đang dâng đầy trong một tâm hồn thật trẻ trước mùa xuân - cuộc đời! Có điều nồng nhiệt như thế, say đắm là vậy nhưng vẫn có một nỗi hoài nghi, lo sợ ám ảnh:
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Cái dấu chấm giữa dòng, lại thêm từ “Nhưng” cắt đôi dòng thơ, tạo một cảm giác hụt hẫng, bâng khuâng cho người đọc. Yêu đời, ham sống đến cuống quýt, đến “vội vàng” là đúng với một Xuân Diệu say sưa, bồng bột. Nhưng sao lại “vội vàng một nửa”? Nếu ở trên, ta đã cảm nhận được cái “tôi” khát khao giao cảm với đời bằng tất cả niềm dạt dào, náo nức thì đến đây ta lại bắt gặp cái “tôi” nhỏ bé, cô đơn trước cuộc đời, trước thời gian:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Âm điệu câu thơ không còn cái xôn xao, rạo rực như ở trên mà bỗng dưng trầm ngâm, nuối tiếc. Đấy phải chăng là tâm trạng của con người khi khát khao tận hưởng cuộc sống, muốn vươn lên đỉnh cao nhất của sự sống nhưng bất lực trước thời gian? Cuộc đời cứ trôi chảy nên có gì tồn tại bền lâu đâu?
Hoa nở để mà tàn
Trăng tròn để mà khuyết
Bèo hợp để chia tan…
Người gần để ly biệt…
(Hoa nở để mà tàn)
Đó là qui luật tuần hoàn của vạn vật trước thời gian. Những câu thơ tiếp theo đầy ắp nỗi lo âu, tiếc nuối: Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Đúng như nhà thơ Thế Lữ nhận xét: “Xuân Diệu là nhà thơ của cuộc đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ thi sĩ xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian luôn quyến luyến cõi đời, khát khao bám lấy cuộc đời đầy hương hoa thanh sắc”. Nhà thơ tha thiết yêu đời, ham sống, sợ thời gian qua nhanh, lo sợ tuổi trẻ sẽ qua đi:
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Bởi thế thi sĩ vội vàng. Vội vàng - nhưng lại lo âu:
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Qua hình ảnh thiên nhiên được nhân hóa, nhà thơ đã diễn tả những rung động rất tế nhị của một nội tâm khá phức tạp. Lo sợ tất cả sẽ qua mau, ngắn ngủi, nhà thơ nuối tiếc, rồi giục giã:
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
Giọng thơ vừa thảng thốt vừa cuống quýt diễn tả nỗi niềm của nhà thơ cũng như cả một thế hệ bấy giờ - con người thật nhỏ bé, cô đơn và bất lực trước cuộc đời - nên bao giờ cũng vội vàng - giục giã!
Đến cuối bài thơ, ta bắt gặp lại cái mạch cảm xúc dạt dào, cuồng nhiệt ở đầu bài thơ, nhưng dòng cảm xúc ấy dâng đến cao trào:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu tro ng một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây. Và cỏ rạng…
Vì lo sợ, nuối tiếc cuộc đời ngắn ngủi mà con người khao khát được “ôm” lấy tất cả trong đối tay quấn riết; nào là mây đưa, gió lượn, cánh bướm với tình yêu, nào là một cái hôn nhiều, non nước, cỏ cây, ánh sáng… khát khao tận hưởng những thanh sắc của chốn vườn trần. Tất cả: cả cái sự sống mơn mởn ấy, thi nhân muốn giơ tay với lấy tất cả, bám lấy bầu xuân hồng mà tận hưởng: Cho chuếnh choáng…cho đã đầy…cho no nê… Mạch thơ cứ dâng lên, dâng lên đến độ cao trào để diễn tả tận cùng cái tứ “Vội vàng” trong cả bài thơ. Thật bất ngờ nhưng cũng thật nhất quán với cảm xúc trong toàn bài thơ, thi sĩ đã đi đến tận cùng nỗi si mê và cuồng bạo: Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!
Cũng là sử dụng biện pháp tu từ nhưng chỉ có một tâm hồn thật cuồng si mới có thể viết một câu thơ táo bạo gây ấn tượng mạnh mẽ đến như vậy!
Bài thơ là tiếng nói của một cá nhân có nhu cầu giao cảm với cuộc đời, khao khát sống, khao khát yêu đến mãnh liệt. Vội vàng là bài ca tình yêu cuộc sống giàu ý nghĩa nhân bản. Thi phẩm thể hiện một quan niệm nhân sinh tích cực. Mùa xuân - Tình yêu - Tuổi trẻ - Cuộc đời trong Vội vàng mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Thơ Xuân Diệu vì thế mà vẫn trẻ mãi với nhân gian
Phân tích bài thơ Vội Vàng Bài Mẫu 4:
Bài thơ Vội vàng được mở đầu bằng bốn dòng thơ ngũ ngôn ngắn gọn, mạnh mẽ như lời tuyên bố về khát vọng của mình:
Tôi muốn tắt nắng đi,
Cho màu đừng nhạt mất.
Tôi muốn buộc gió lại,
Cho hương đừng bay đi.
Tắt nắng, buộc gió là những điều con người không thể làm được, đó là những khát khao phi lí. Nhưng cái phi lí ấy lại có lí với trái tim của nhà thơ, bởi đó là trái tim đầy khao khát mãnh liệt, muốn sống đến trọn vẹn chữ “sống”, muốn giữ mãi cho mình những hương, những sắc của của cuộc đời. Mà cuộc đời trong cảm nhận của nhà thơ lại đẹp đẽ biết chừng nào, quý giá biết bao nhiêu. Nhà thơ thấy rằng trong cuộc sống, mọi thứ đều kì diệu, mỗi sự vật dù nhỏ bé đến đâu cũng đều dâng hiến cho đời những vẻ đẹp tinh tuý nhất của mình:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật,
Này đây hoa của đồng nội xanh rì,
Này đây lá của cành tơ phơ phất,
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.
Bướm ong thì có tuần tháng mật đầy ngọt ngào, cuốn hút, đồng nội thì có vẻ đẹp của màu xanh mơn mởn và muôn hoa rực rỡ , cành tơ non thì có muôn lá rung rinh, ánh sáng bình minh như cái chớp mi của người đẹp…Những câu thơ có nhịp điệu thật nhanh, thật gấp gáp, sử dụng phép liệt kê, điệp ngữ, rất nhiều tính từ, cách liên tưởng táo bạo, đa tình. Cuộc sống trần gian hiện lên qua đó thật sống động, tươi tốt, đáng yêu, đáng sống, tràn ngập âm thanh, màu sắc tươi sáng, khai mở ra một thiên dường tồn tại chính trên cõi trần này.
Với Xuân Diệu, cuộc đời lúc nào cũng tràn ngập niềm vui, mỗi ngày mới đến là niềm vui cũng gõ cửa ùa vào theo:
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Niềm vui như một vị thần độ lượng, ban phát hạnh phúc cho từng người. Phải nói rằng trong thơ Việt Nam, chưa ai có cách cảm nhận cuộc sống, mùa xuân như cách cảm nhận của Xuân Diệu:
Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần
Xuân Diệu chẳng lấy thiên nhiên làm chuẩn mực của cái đẹp khi so sánh với con người như thơ cổ mà lại lấy con người làm chuẩn mực để so sánh với vẻ đẹp của thiên nhiên. Nếu Nguyễn Du so vẻ đẹp của Thuý Vân-Thuý Kiều “Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da” thì Xuân Diệu lại liên tưởng “ Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”. Một cách so sánh rất riêng, rất táo bào, đầy tình yêu đời nồng nhiệt rất Xuân Diệu. Ông thấy mùa xuân với bao vẻ đẹp sinh động của nó giống như cặp môi đỏ mọng của thiếu nữ đang kề gần. Cách so sánh này chứa đựng bao rung động tận đáy lòng, vừa có sự khao khát, thèm muốn, háo hức rất thiêng liêng mà cũng rất trần tục. Nhà thơ yêu cuộc sống đến si mê, cháy bỏng!
Có một cuộc sống đẹp như thế để sống, có bao hương sắc tuyệt diệu như thế để tận hưởng, con người ta sẽ sung sướng biết bao. Nhưng, tựa như một cung nhạc đang vút cao, đến đây bỗng chùng xuống:
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.
Câu thơ bị ngắt làm hai, niềm vui sướng không được trọn vẹn. Bởi Xuân Diệu nhận ra rằng điều sung sướng ấy ngắn ngủi biết bao:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Xưa nay, người ta chỉ tiếc những kỉ niệm khi nó đã trở thành quá khứ, tiếc xuân khi nó đã không còn. Ở đây, Xuân Diệu với sự nhạy cảm lạ lùng của nhà thơ yêu cuộc sống đến đắm say, ông tiếc mùa xuân ngày khi mùa xuân vẫn còn đang phơi phới. Vì nhà thơ biết rằng thời gian sẽ trôi qua nhanh, mà với những gì quý giá, với những vẻ đẹp, thời gian còn tàn nhẫn trôi nhanh hơn gấp bội, nhanh đến khủng khiép, phũ phàng. Cái non trẻ, thắm tươi rồi sẽ chẳng mấy mà già nua, héo úa. Điều ấy lại ảnh hưởng vô cùng to lớn đến Xuân Diệu:
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Câu thơ đầy cảm giác buồn bã. Nhà thơ phát hiện ra một điều bi thảm cho mình: mùa xuân trôi qua, tuổi trẻ sẽ trôi qua. Mà khi tuổi trẻ đã trôi qua thì cuộc đời nào còn ý nghĩa gì nữa. Bởi quý giá nhất của cuộc đời, dất trời là mùa xuân, quý giá nhất của con người là tuổi trẻ.
Con người khao khát vẻ đẹp tồn tại vĩnh cửu, nhưng cuộc đời lại có những quy luật vô cùng chặt chẽ và nghiệt ngã:
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Thời gian thì vô hồi vô hạn, nhưng đời người thì hữu hạn. Con người trong cái hữu hạn ấy trở nên thật nhỏ bé, tội nghiệp và mong manh. Bao người lí luận rằng xuân đi xuân đến, nhưng với Xuân Diệu, ông chẳng thể tự an ủi mình mà trái lại, càng xót xa hơn:
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại.
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.
Mùa xuân của đất trời đẹp lắm, quý giá lắm, nhưng mùa xuân chỉ quý giá, chỉ đẹp khi con người biết hưởng, được hưởng vẻ đẹp của nó. Khi con người chẳng còn trẻ mà tận hưởng mùa xuân thì xuân cũng mất hết ý nghĩa. Những câu thơ của Xuân Diệu vì thế mà chuyển sang giọng điệu buồn bã:
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa
Tất cả đều buồn bã, đều mất hết ý vị, chỉ còn “rớm vị chia phôi”, chỉ biết “than thầm tiễn biệt”, chỉ còn “hờn dỗi phải bay đi”, chỉ “sợ độ phai tàn sắp sửa”. Trong thơ Việt Nam, ít ai có giọng thơ nuối tiếc thời gian, thương tiếc cuộc sống thiết tha dường ấy. Cũng vẫn gió lá hoa như đạon đầu nhưng đoạn trên rạo rực náo nức, đoạn này lại buồn thương ngậm ngùi, xót xa biết bao nhiêu. Nhà thơ kêu lên một cách tuyệt vọng:
Chẳng bao giờ! Ôi chẳng bao giờ nữa!
Nỗi đau đớn của Xuân Diệu phải sâu sắc lắm, cắt cứa lắm, thấm thía lắm thì mới bộc phát thành tiếng than kêu thống thiết dường ấy. Thời gian cứ mênh mông nhưng mùa xuân và tuổi trẻ của con người cứ ngắn ngủi. Con người chẳng thể làm được gì để biến cái hữu hạn của đời người thành cái vô hạn trường tồn cùng vũ trụ. Chỉ còn mỗi cách, đó là phải hối hả, phải đắm say mãnh liệt hơn, phải vội vàng thâu nhận đến mức độ cao nhất, nhiều nhất những vẻ đẹp nhân gian, những thứ ưúy giá của đời sống, của tuổi trẻ, mùa xuân. Xuân Diệu giục giã:
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đàu mơn mởn,
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng.
Những câu thơ mạnh bạo, gấp gáp, giục giã như một dòng suối ào ạt tuôn chảy, tưởng chừng ngôn từ xô đẩy vào nhau, chen lấn nhau để cho kịp mạch cảm xúc đang bừng lên sôi nổi của nhà thơ. Những tiếng “ta muốn” láy đi láy lại mãi như một điệp khúc bất tận để khẳng định niềm khao khát cháy bỏng muốn sống đến tận cùng cảm giác của Xuân Diệu. Một loạt điệp từ được sử dụng theo mức độ tăng dần của khao khát: muốn ôm - muốn riết - muốn say - muốn thâu - muốn cắn thể hiện tam trạng si mê đến cuồng nhiệt. Trong một câu thơ mà có đến ba hư từ “và” chứng tỏ Xuân Diệu nồng nhiệt đến rối rít, cuống quýt, như muốn cùng lúc dang tay ôm hết cả vũ trụ, cả cuộc đời, mùa xuân vào lòng mình. Sống như thế với Xuân Diệu mới thực là sống, mới đi đến tạn cùng của niềm hạnh phúc được sống.
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hạnh phúc của sự sống là mùi thơm, ánh sáng, thanh sắc. Tận hưởng cuộc đời chính là có dược cảm nhận về những điều ấy ở độ tràn trề nhất. Xuân Diệu muốn tận hưởng cuộc sống cho đến “no nê”, “chuếnh choáng”, “đã đầy”. Trong niềm cảm hứng ở độ cao nhất, Xuân Diệu nhận ra cuộc đời, mùa xuân như một cái gì quý nhất, trọn vẹn như một trái đời đỏ hồng, chín mọng, thơm ngát, ngọt ngào, để cho nhà thơ tận hưởng trong niềm khao khát cao độ:
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi
Câu thơ là đỉnh cao của những khao khát sống, của tình yêu sống rạo rực trong con tim nồng cháy của Xuân Diệu.
Bài thơ Vội vàng thể hiện tam trạng đắm say bồng bột của một tấm lòng ham sống mãnh liệt. Bài thơ còn thể hiện một quan niệm sống sống gấp gáp vội vàng tận hưởng những hạnh phúc trần thế, một quan niệm sống lành mạnh và tích cực so với đương thời. Bài thơ là một sáng tác tiêu biểu cho phong cách thơ trẻ trung tươi mới của “nhà thơ của tình yêu”, bài thơ rất tự do, hình ảnh giàu sức gợi, giàu nhạc điệu và cách liên tưởng rất hiện đại. Tâm trạng yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt trong tác phẩm khẳng định tư tưởng nhân văn của nhà thơ. Cho đến nay, nội dung thúc giục mọi người sống có nghĩa trong cuộc sống thực tại của bài thơ vẫn còn bao ý nghĩa với thế hệ trẻ.
Phân tích bài thơ Vội Vàng Bài Mẫu 5: Đây là bài viết phân tích 13 câu thơ đầu của bài thơ Vội Vàng
Thời đại thơ mới là một nhánh rẽ đầy ngoạn mục, táo bạo của thơ ca Việt Nam. Thời điểm thơ văn khoát lên cho mình một chiếc áo được cách tân mới mẻ, là mảnh đất màu mỡ vun trồng những hồn thơ tài ba như: Tản Đà, Thế Lữ, Xuân Diệu,… Theo như Hoài Thanh nhận định Tản Đà là người “ đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc dạo chơi tân kì đương sắp sửa” thì có lẽ Xuân Diệu là người đã đưa những khúc nhạc ấy đến một vị trí xứng tầm trong lòng bạn đọc khi cho ra đời tập : “Thơ thơ” được xem là đỉnh cao trong phong trào thơ mới. Bài thơ “Vội vàng” được trích từ tập thơ ấy, tiêu biểu cho một phong cách thơ được cách tân rất mới mẻ về nội dung và hình thức của Xuân Diệu. “Một hồn thơ rạo rực băn khoăn trong những câu thơ lời ít ý nhiều như đọng lại bao tinh hoa”
Giữa lúc ta lên tiên cùng Tản Đà, đắm chìm trong mộng tưởng cùng Hàn Mặc Tử,.. thì Xuân Diệu là người đã “đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”. Lòng yêu đời yêu cuộc sống tha thiết đã khiến tâm hồn của thi sĩ bám chặt lấy cuộc sống trần thế, không thoát ly hoàn toàn như các nhà thơ khác. Với đời, ông có một khát khao cháy bỏng:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Nhà thơ sử dụng những câu thơ ngắn với âm điệu nhanh, ngôn ngữ thơ dứt khoát để thể hiện ứơc muốn mãnh liệt muốn níu giữ thời gian. Bởi lẽ thời gian là nỗi ám ảnh nhất trong cuộc đời:
“Ôi đau đớn ! Ôi đau đớn ! Thời gian ăn cuộc đời”
(Bauxtelaire)
Là một hồn thơ rạo rực, tha thiết với đời, ông muốn tận hưởng những khoảnh khắc tươi đẹp nhất của trần thế nhưng ngặt một nỗi:
“Thời gian thấm thoắt thoi đưa
Nó đi đi mãi có chờ đợi ai”
(Tục ngữ)
Vì thế thi nhân rất trân trọng những giây phút tươi đẹp của cuộc đời. Người dùng tất cả giác quan tạo hoá ban tặng để cảm nhận thời gian. Thời gian vốn vô hình, vô vị, vô tình đi vào thơ Xuân Diệu bỗng rất hữu hình, nên thơ qua hình ảnh “nắng”, “gió”. Từ “tôi muốn” được điệp lại kết hợp với những động từ mạnh như “tắt” (nắng), “buộc” (gió) thể hiện một tư thế chủ động muốn đóng băng thời gian vì một lẽ đời tươi đẹp phía trước:
“ Của ong bướm này đây tuần tháng mật
————————————————-
Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa”
Những câu thơ với âm điệu nhẹ nhàng, hình ảnh tươi sáng đã vẽ nên một khung cảnh thiên nhiên đậm sắc, hương, thanh. Vạn vật đang ở độ đương thì tươi ngon nhất, đẹp đẽ nhất. Chim chóc, hoa lá, ong bướm như vực dậy để tận hưởng cảnh xuân tươi tắn, mựơt mà. Cảnh vật không tĩnh lặng mà náo động linh hoạt với những hình ảnh liên tưởng độc đáo của thi sĩ. “Tuần tháng mật” của đôi vợ chồng đắm say trở thành mùa của ong bướm dập dìu rất lãng mạn. Tiếng hót của chim yến chim oanh trở thành “khúc tình si” hút hồn biết bao con người yêu cảnh thiên nhiên tươi đẹp. Và ánh nắng được nhân hoá như một nàng tiên e thẹn với những ánh mi dài cuốn hút vạn vật. Tất cả như chan hoà làm nên một mảnh vườn đẹp nên thơ mà rất trần đời. Từ đó cái đẹp của mùa xuân thiên nhiên còn ẩn dụ như cái đẹp của con người ở độ sắc xuân, đương thì. Qua đó, ta thấy được thi sĩ có sự cảm nhận mùa xuân rất tinh tế và có tài khéo léo vẽ lại những hình ảnh ấy với một thứ sức sống căng tràn, nảy nở. Nói bóng bẩy như Vũ Bằng thì thứ thứ nhựa sống mỡ màng ấy như “ máu căng lên trong lộc của loài nai, như những mầm non háo hức muốn bức ra từ những thân cây”. Thi sĩ chọn thời điểm rạo rực nhất “tháng giêng” , tươi mới nhất ”mỗi buổi sớm”, để miêu tả khiến bức tranh thiên nhiên mùa xuân càng tinh khôi ,xinh đẹp. Không chỉ vậy, nhà thơ còn tạo nên một thiên đường của xúc cảm. Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác được dùng rất linh hoạt từ xúc giác ”tuần tháng mật”, thính giác ”khúc tình si”, thị giác “ánh sáng chớp hàng mi”.
Tâm hồn của thi nhân rạo rực, tha thiết, bâng khuâng trước cảnh trần thế xinh đẹp vô cùng đã khơi nguồn nên những hình ảnh sáng tạo độc đáo trong những vần thơ. Vào lúc ấy, hồn thơ, hồn người, hồn của thiên nhiên đất trời như giao hoà để Xuân Diệu viết nên một câu tuyệt bút:
“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
”Tháng giêng” vốn vô hình bỗng trở nên hũư hình căng đầy một tình yêu trần thế. Một thứ tình cảm rạo rực, cháy bỏng trong tâm hồn thi nhân đã được dồn nén kết tụ trong một từ “ngon” duy nhất rất tài hoa. Câu thơ với điểm nhấn là từ “ngon” được dùng rất đắt thể hiện một quan điểm mĩ học rất mới mẻ về sự cảm nhận thiên nhiên phản phất sắc thái của “nhục thể”. Tuy vậy, ý thơ không gây thô tục mà có phần mới lạ. Nhà thơ cảm nhận rất tinh tế ý vị của thời gian nên có sự chuyển đổi xúc giác sang vị giác. Quả thật, Xuân Diệu bên cạnh có đôi mắt nhìn đời rất tinh tế còn có một tâm hồn rất thiết tha, nhạy cảm với cuộc sống.
Những câu thơ: “Của ong bướm này đây tuần tháng mật”,”Của yến anh này đây khúc tình si” và ” Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” mang một quan điểm mĩ học rất mới so với thơ ca truyền thống trước đó. Thơ trung đại con người được các nhà văn, nhà thơ tạo tác trên những chuẩn mực của thiên nhiên. Bút pháp ước lệ tượng trưng luôn gắn liền với việc miêu tả con người:
“Râu hùm, hàm én, mày ngài”
“Làn thu thuỷ, nét xuân sơn”
(Nguyễn Du)
Thế mới thấy thơ Xuân Diệu đã hoàn toàn lột xác và hướng về một nguồn quan điểm mới rất gần với shakespears:
“Con người là kiểu mẫu của muôn loài”
Nhà thơ đã lấy con người làm khuôn mẫu để tạo ra những hình thái thiên nhiên mang một sức hấp dẫn kì lạ, một sự tươi mới chưa từng có. Người cảm nhận thiên nhiên bằng một lăng kính trái hình với thi ca thời xưa . Qua đó, ta thấy thêm tin yêu một hồn thơ mới đã đem đến cho ta một hình ảnh đầy thi vị, một ánh màu mới mẻ trong thơ ca.
“Thơ Xuân Diệu là một niềm khát khao giao cảm với đời”
(Nguyễn Đăng Mạnh)
Hình ảnh của cuộc sống đi vào thơ Xuân Diệu như một thứ ánh sáng được khúc xạ qua lăng kính tình yêu rất tinh khôi và giàu sức sống. Càng yêu đời, nhà thơ càng luyến tiếc trước dòng chảy của thời gian. Thời điểm vạn vật đang căng tràn nhựa sống cũng chính là lúc đang đứng trên ranh giới của sự lụi tàn, héo úa. Vì thế từ những câu thơ gãy gọn ở khổ đầu, nhà thơ đi vào khổ hai với những câu thơ dài, âm điệu chậm như bước chân người thư thái dạo ngắm vườn xuân muốn tận hưởng giờ khắc huy hoàng ấy. Thi sĩ từ tốn chỉ cho người đọc những gì tinh hoa, tươi đẹp nhất của trần gian với một thái độ mến yêu, trân trọng” này đây”.
Đọc thơ Xuân Diệu, ta thấy từng dòng chữ rất mới, những tư tưởng tiến bộ thoát ly hoàn toàn những khuôn sáo cổ điển, tuy say mà tỉnh, mộng nhưng thực. Cảnh sắc xuân như xô đẩy câu thơ, khuôn khổ thơ bị xê dịch như “một đống hỗn độn đẹp xô bồ vừa say dậy”(Bích Khê). Đó là điều khiến thơ của thi sĩ từng bước chứng tỏ sức sống mãnh liệt qua thời gian mặc dù người khen rất nhiều người chê cũng không ít.
Tóm lại, đoạn thơ thể hiện một một khát vọng sống thiết tha mãnh liệt rất trần đời. Một hương vị lạ góp phần làm đa dạng sự mới mẻ trong phong trào thơ mới. Dù rằng thơ Xuân Diệu mang một phong cách rất Tây nhưng nhìn chung lầu thơ của ông được xây dựng trên mảnh đất thơ ca truyền thống. Sự tiếp thu những tư tưởng mới, biết hoà nhập nhưng không hoà tan là nét chung rất đáng ngợi ca khâm phục của Xuân Diệu nói riêng và các nhà thơ mới nói chung. Vì thế Xuân Diệu xứng đáng là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”
- Cảm nhận về bức tranh thiên nhiên mùa hè trong bài thơ Cảnh Ngày Hè của Nguyễn Trãi (13/10) Nguồn:
- Phân tích bài thơ Thuật Hoài (Tỏ Lòng) của Phạm Ngũ Lão (13/10) Nguồn:
- Phân tích nhân vật Chí Phèo và 3 lần Chí đến nhà Bá Kiến trong truyện Chí Phèo (27/09) Nguồn:
- Phân tích bi kịch tinh thần trong tác phẩm Đời Thừa của Nam Cao (27/09) Nguồn:
- Phân tích tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia của Vũ Trọng Phụng (27/09) Nguồn: